Jīvaka Sutta
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), tại rừng xoài của Jīvaka Komārabhacca.
Rồi Jīvaka Komārabhacca đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Jīvaka Komārabhacca bạch Thế Tôn
—Bạch Thế Tôn, con nghe nói như sau: “Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama tuy biết thế vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình và được làm cho mình”. Bạch Thế Tôn, những ai nói như sau: “Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama tuy biết thế vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình và được làm cho mình”, bạch Thế Tôn, những người ấy có nói chính lời Thế Tôn, họ không xuyên tạc Thế Tôn không đúng sự thật, họ trả lời đúng pháp, thuận pháp, và những ai như pháp, thuyết đúng pháp, thuận pháp không có thể quở trách?
—Này Jīvaka, những ai nói như sau: “Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama tuy biết thế vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình được làm cho mình”, những người ấy không nói chính lời của Ta, họ xuyên tạc Ta, không như chân, không như thật. Này Jīvaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt không được thọ dụng: thấy, nghe và nghi vì mình mà giết. Này Jīvaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt không được thọ dụng. Này Jīvaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt được thọ dụng: không thấy, không nghe và không nghi vì mình mà giết. Này Jīvaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt được thọ dụng.
Ở đây, này Jīvaka, Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn nào, vị ấy biến mãn một phương với tâm có lòng từ, và an trú; cũng vậy phương thứ hai, phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân và an trú. Một người cư sĩ hay con một người cư sĩ đến Tỷ-kheo ấy và mời ngày mai thọ trai và này Jīvaka, Tỷ-kheo ấy nhận lời. Sau khi đêm ấy đã qua, Tỷ-kheo ấy vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến chỗ người cư sĩ kia hay con người cư sĩ kia. Sau khi đến, vị ấy ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Và vị cư sĩ, hay con vị cư sĩ ấy thỉnh vị ấy dùng các món ăn khất thực thượng vị. Vị Tỷ-kheo ấy không nghĩ: “Thật tốt lành thay, người cư sĩ này, hay con người cư sĩ này thỉnh ta dùng các món ăn khất thực thượng vị. Mong rằng người cư sĩ này, hay con người cư sĩ này trong tương lai sẽ thỉnh ta dùng các món khất thực thượng vị như vậy”. Tỷ-kheo ấy không nghĩ như vậy. Vị ấy thọ dụng các món ăn khất thực ấy, với tâm không tham trước, không tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai họa, ý thức rõ rệt sự xuất ly. Này Jīvaka, Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo kia, trong thời gian ấy có nghĩ đến tự hại, hay nghĩ đến hại người, hay nghĩ đến hại cả hai?
—Thưa không, bạch Thế Tôn.
—Này Jīvaka, Tỷ-kheo kia, trong thời gian ấy có phải dùng các món ăn không có lỗi lầm?
—Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: “Cao thượng thay, an trú lòng từ! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn diện kiến thân chứng cho con điểm này. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn an trú lòng từ.
—Này Jīvaka, cái gọi là tham, là sân, là si, do đó sân hận khởi lên, tham ấy, sân ấy, si ấy được Như Lại đoạn trừ, chặt cho đến tận gốc, làm cho như thân cây tala, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Này Jīvaka, nếu như vậy là ý nghĩa Ông muốn nói, thời Ta đồng ý với Ông.
—Bạch Thế Tôn, như vậy thật là ý nghĩa con muốn nói.
—Ở đây, này Jīvaka, Tỷ-kheo sống dựa vào một làng nào hay một thị trấn nào. Vị ấy biến mãn một phương với tâm có lòng bi … với tâm có lòng hỷ … với tâm có lòng xả và an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy, biến mãn với tâm có lòng xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân và an trú. Một cư sĩ hay con một người cư sĩ đến Tỷ-kheo ấy và mời ngày mai thọ trai. Và này Jīvaka, Tỷ-kheo ấy nhận lời. Sau khi đêm ấy đã qua, vị ấy vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến chỗ người cư sĩ kia, hay con của người cư sĩ kia. Sau khi đến, vị ấy ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Và vị cư sĩ, hay con vị cư sĩ ấy thỉnh vị ấy dùng các món ăn khất thực thượng vị. Tỷ-kheo ấy không nghĩ: “Thật tốt lành thay, người cư sĩ này, hay con người cư sĩ này thỉnh ta dùng các món ăn khất thực thượng vị. Mong rằng vị cư sĩ này, hay con vị cư sĩ này trong tương lai sẽ thỉnh ta dùng các món ăn khất thực thượng vị như vậy”. Tỷ-kheo ấy không nghĩ như vậy. Vị ấy thọ dụng các món ăn khất thực ấy với tâm không tham trước, không tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai họa, ý thức rõ rệt sự xuất ly. Này Jīvaka, Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo kia, trong thời gian ấy có nghĩ đến hại mình, hay nghĩ đến hại người, hay nghĩ đến hại cả hai?
—Thưa không, bạch Thế Tôn.
—Này Jīvaka, vị Tỷ-kheo kia, trong thời gian ấy, có phải dùng các món ăn không có lỗi lầm?
—Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: “Cao thượng thay, an trú lòng xả! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn diện kiến thân chứng cho con điểm này. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn an trú lòng xả.
—Này Jīvaka, cái gọi là tham, là sân, là si, do đó sân hận khởi lên, tham ấy, sân ấy, si ấy được Như Lại đoạn trừ, chặt cho đến tận gốc, làm cho như thân cây tala, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Này Jīvaka, nếu như vậy là ý nghĩa Ông muốn nói, thời ta đồng ý với Ông.
—Bạch Thế Tôn, như vậy thật là ý nghĩa con muốn nói.
—Này Jīvaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân. Khi người ấy nói như sau: “Hãy đi và dắt con thú này đến”, đó là nguyên nhân thứ nhứt, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Con thú ấy, khi bị dắt đi, vì bị kéo lôi nơi cổ, nên cảm thọ khổ ưu, đó là nguyên nhân thứ hai, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy nói: “Hãy đi và giết con thú này”, đó là nguyên nhân thứ ba, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi con thú ấy bị giết, cảm thọ khổ ưu, đây là nguyên nhân thứ tư, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy cúng dường Như Lai hay đệ tử Như Lai một cách phi pháp, đó là nguyên nhân thứ năm, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Này Jīvaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy sẽ chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân này.
Khi nghe nói vậy, Jīvaka Komārabhacca bạch Thế Tôn
—Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo thật sự thọ dụng các món ăn một cách hợp pháp. Bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo thật sự thọ dụng các món ăn không có khuyết phạm. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! … Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tạng Kinh – Kinh Trung Bộ II“, Ngài Thích Minh Châu Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tạng Kinh – Kinh Trung Bộ II” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Ngài Thích Minh Châu
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda
* Thuộc KINH TRUNG BỘ II – TẠNG KINH – TAM TẠNG TIPITAKA | Dịch Việt: Ngài Thích Minh Châu
Các bài viết trong sách
1. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Kandaraka
2. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Bát Thành
3. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Hữu Học
4. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Potaliya
5. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Jìvaka
6. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Ưu-ba-ly
7. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Hạnh Con Chó
8. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Vương Tử Vô Úy
9. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Nhiều Cảm Thọ
10. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Không Gì Chuyển Hướng
11. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Giáo Giới La-hầu-la Ở Rừng
12. Kinh Trung Bộ Ii – Ðại Kinh Giáo Giới La-hầu-la
13. Kinh Trung Bộ Ii – Tiểu Kinh Màlunkyà
14. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Bhaddàli
15. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Ví Dụ Con Chim Cáy
16. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Càtumà
17. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Nalakapàna
18. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Gulisàni
19. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Kìtàgiri
20. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Dạy Vacchagotta Về Tam Minh
21. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Dạy Vacchagotta Về Lửa
22. Kinh Trung Bộ Ii – Ðại Kinh Vaccaghotta
23. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Trường Trảo
24. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Màgandiya
25. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Sandaka
26. Kinh Trung Bộ Ii – Ðại Kinh Sakuludàyi
27. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Samanamandikà
28. Kinh Trung Bộ Ii – Tiểu Kinh Sakuludayi
29. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Vekhanassa
30. Kinh Trung Bộ Ii – Ðại Kinh Māluṅkyā
31. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Ghatikara
32. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Ratthapàla
33. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Makhadeva
34. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Madhura
35. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Vương Tử Bồ-đề
36. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Angulimàla
37. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Ái Sanh
38. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Bàhitika
39. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Pháp Trang Nghiêm
40. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Kannakatthala
41. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Brahmàyu
42. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Sela
43. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Assalàyana
44. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Ghotamukha
45. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Cankì
46. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Esukàrì
47. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Dhànanjàni
48. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Vàsettha
49. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Subhakinh Bát Thành
50. Kinh Trung Bộ Ii – Kinh Sangàrava
KINH TRUNG BỘ II – TẠNG KINH – TAM TẠNG TIPITAKA | Dịch Việt: Ngài Thích Minh Châu (theo https://theravada.vn/55-kinh-jivaka-kinh-trung-bo/)





Users Today : 643
Views Today : 1148
Total views : 322069
Who's Online : 16




This Month : 8483
Total Hits : 17564073