Khái Niệm “Tam Giới” Trong Đạo Phật

Tam giới gồm ba cõi : Cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc là toàn bộ vũ trụ quan theo cái nhìn của Phật giáo. Tùy mức độ nghiệp lực và khả năng tu tập, mà chúng sanh sẽ tái sinh, sống ở một trong ba cõi này. Dục giới là nơi chúng sanh nhiễm năm thứ dục lạc: Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy. Sắc giới, là nơi chúng sanh đã ly dục, hình dáng và cảnh sắc xung quanh đều trang nghiêm, thanh tịnh. Vô Sắc giới là cõi cao nhất trong Tam giới, chúng trời nơi đây không có Sắc uẩn, chỉ có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, tức bốn ấm vi tế mà thôi, nên còn gọi là tinh thần giới hay thức giới.

Chúng hữu tình trong Tam giới chia làm bốn loại:

1) Thai sanh: Là loại sinh từ bụng mẹ như loài người, loài gia súc trâu, bò, ngựa, lừa, heo, chó, mèo v.v…

2) Noãn sanh: Loại này được sinh 2 lần: Trước tiên từ bụng mẹ sinh ra bằng trứng và tiếp theo sau trứng nở thành con như các loài gà, vịt, ngỗng, công, hay các loài chim …

3) Thấp sanh: Chúng hữu tình sinh từ nơi ẩm ướt như loài trùng, muỗi, dòi, đỉa…

4) Hóa sinh: Là chúng hữu tình chẳng nương nơi nào, tự nhiên hiện ra đầy đủ thân hình chi phận, ở một nơi nào đó. Chẳng hạn như chư thiên trong cõi Dục giới, phạm thiên trong cõi trời Sắc giới, hay cõi trời Vô sắc; hoặc loài ở địa ngục, loài atula, loài ngạ quỷ. Đặc biệt loài người xuất hiện đầu tiên trên trái đất cũng thuộc chúng sanh hóa sinh.

I. DỤC GIỚI LÀ GÌ ?

Dục giới là một trong ba giới: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Dục giới là cõi thấp nhất trong Tam giới, chúng sanh ở cõi này còn nhiễm đầy đủ dục vọng, ham muốn tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ (tài, sắc, danh, thực, thùy). Đời sống của con người ở cõi Dục vui buồn lẫn lộn, nhưng đa phần là khổ nhiều hơn vui…

Chúng sanh Dục giới có sáu chủng loại: Trời, Người, Atula, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục. Trong mỗi cõi có các chủng loại khác ở lẫn lộn. Với đôi mắt của loài người thì chỉ nhìn thấy được con người và súc sinh, còn những chủng loại khác thì không thấy được.

Xếp theo thứ bậc, từ thấp lên cao, thì trong Dục giới có ba loại: Loại ác thú, Loại người và loại trời. Loại ác thú là loại bất hạnh, bao gồm A-tu-la, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục. Loại Người có hạnh phúc có đau khổ, họ sống ở bốn châu là: Đông-Thắng-Thần-Châu, Tây-Ngưu-Hóa-Châu, Nam-Thiệm-Bộ-Châu còn gọi là Diêm-Phù-Đề và Bắc-Câu-Lư-Châu. Còn chúng Trời sung sướng hạnh phúc hơn loài người, họ sống một trong 6 tầng trời như : Tứ-Thiên-Vương, Đao-Lợi thiên, Dạ-Ma thiên, Đâu-Suất thiên, Hóa-Lạc thiên, Tha- Hóa-Tự-Tại thiên.

A. CHÚNG TRỜI Ở DỤC GIỚI

Kinh ghi rằng trời Dục giới gồm 6 tầng. Theo thứ tự từ cõi người trở lên, thì có cõi trời Tứ-Thiên-Vương, cõi trời Đao-Lợi, cõi trời Dạ-Ma, cõi trời Đâu- Suất, cõi trời Hóa-Lạc, cõi trời Tha-Hóa-Tự-Tại. Thiên chúng cư ngụ ở các tầng trời này là do tích lũy nhiều phước báu, nhưng vẫn là những phước báu tạm bợ vì còn bị luân hồi sinh tử. Sáu hạng trời ở cõi Dục đều do hóa sinh, mang hình tướng nam nữ, với đầy đủ các thứ dục vọng như con người, nhưng phần sắc tướng của họ vô cùng vi tế, mắt thường không trông thấy được. Mỗi tầng trời có một vị Thiên Vương cai quản các vị thiên chúng.

1) TỨ-THIÊN-VƯƠNG: Là tầng trời thấp nhất trong 6 tầng trời thuộc Dục giới, nằm ở lưng chừng núi Tu Di. Có bốn vị thiên vương cai quản 4 phương trời. Mỗi thiên vương cai quản các thiên chúng thuộc lãnh vực của mình. Vị nào cũng có một đội quân Dạ Xoa hùng mạnh. Họ có nhiệm vụ bảo vệ Phật pháp và trừng trị những kẻ ác. Phương Đông có Trì-Quốc thiên vương thống lãnh chư thần ủng hộ Đông-Thắng-Thần châu. Phương Nam có Tăng-Trưởng thiên vương đứng đầu ủng hộ Nam-Thiện-Bộ châu tức Diêm-Phù-Đề. Phương Tây giữa lưng chừng núi Tu-Di là nơi Quảng-Mục thiên vương cai quản, vị này thống lãnh các Long thần và ủng hộ Tây-Ngưu-Hóa châu. Phương Bắc là chỗ ở của Đa-Văn thiên vương thống lãnh các quỷ thần Dạ-Xoa, La Sát, ủng hộ Bắc-Câu-Lư châu. Các thần núi, sông, đất, rừng, cây, thành quách… tất cả quỷ thần đều thuộc quyền thống nhiếp của Tứ Đại Thiên Vương. Thiên chúng ở cõi trời này vẫn có nếp sống vợ chồng . Tuổi thọ chúng trời này là 500 năm, mỗi năm được tính bằng 9 triệu năm ở cõi người.

2) ĐAO LỢI: Là tầng trời thứ hai, nằm trên đỉnh núi Tu Di. Nơi đây địa thế rộng rãi tốt đẹp. Ở bốn góc trên đỉnh núi Tu-Di có bốn tòa núi nhỏ, nơi thần Dược-Xoa tên là Kim-Cương-Thủ trú ngụ, có trách nhiệm tuần tra và hộ vệ chư thiên. Chính giữa đỉnh Tu-Di là khu thành đô rộng lớn tên là Diệu Kiến. Xung quanh thành Diệu Kiến có 32 thiên xứ, mỗi xứ có một thiên chủ quản trị. 32 thiên xứ hợp với thiên đô của Đế Thích thành 33 thiên xứ, nên cõi trời Đao-Lợi còn gọi là Tam-thập-tam-thiên (Từ cõi trời 33). Giữa thành Diệu Kiên là cung điện nguy nga tráng lệ gọi là cung Tỳ-Thiền-Diên nơi ở của vua trời. Quanh cung điện có 101 tòa lâu đài gồm 10,770 phòng, mỗi phòng có 7 thiên nữ, mỗi thiên nữ có 7 thể nữ hầu hạ. Các thiên nữ đó đều là chánh phi của Thích-Đề-Hoàn-Nhân là vị vua cai quản trời Đao-Lợi, thường gọi là Đế-Thích. Đế-Thích ở chung với Xá-Chi-Ngọc-Nữ. Hóa thân của vị vua trời này ở với các bà phi.

Thiên chúng ở trời Đao-Lợi vui đắm theo dục lạc gần như quên mất thời gian. Họ hưởng thụ, ca múa nói cười, dạo hết cảnh này lại kéo nhau du ngoạn cảnh khác. Nơi đây không có ánh sáng mặt trời mặt trăng, chỉ có quang minh của cung điện và chư thiên. Màu sắc và ánh sáng của cây cối đều khác nhau. Khi hoa sen màu hồng dưới ao khép lại, hoa sen xanh nở ra, là lúc thiên chúng ngủ nghỉ. Ngược lại khi hoa sen hồng nở ra, hoa sen xanh khép lại, chư thiên thức dậy dạo chơi. Đời sống của chúng thiên ở đây không lo không nghĩ, muốn gì tự hóa hiện. Cứ thế kéo dài 1,000 năm thì chấm dứt một đời. Mỗi năm được tính bằng 36 triệu năm ở cõi người.

Trong lịch sử Phật giáo có đoạn ghi: Sau khi thành đạo, vì nhớ đến ân sinh dưỡng của mẫu thân là hoàng hậu Ma-Da, Đức Phật hiện thân lên cõi trời Đao- Lợi thuyết pháp cho Mẹ nghe. Sau khi nghe pháp xong, hoàng hậu Ma-Da chứng được thánh quả.

3) DẠ MA: Hai tầng trời Tứ -Thiên-Vương và Đao-Lợi y cứ nơi núi Tu-Di gọi là Địa-Cư-thiên. Trời Dạ-Ma vượt khỏi đỉnh núi Tu-Di thuộc về Không-Cư-thiên. Dạ-Ma là tầng trời thứ ba, cao hơn tầng trời Đao-Lợi, nằm lơ lửng giữa hư không. Nơi đây cũng có đầy đủ cung điện lâu đài, có vườn cây, vườn hoa. Tất cả đều trang nghiêm diễm lệ. Chúng sanh ở đây sống về đêm, không có ánh sáng mặt trời. Họ có thân hình sáng chói, cũng có vợ có chồng. Tuổi thọ là 2,000 năm, mỗi năm được tính bằng 144 triệu năm ở cõi người.

4) ĐÂU SUẤT: Là tầng trời thứ tư, vị trí cao hơn tầng trời Dạ-Ma. Đây là nơi Bồ tát Di-Lặc đang tu tập và chờ đợi đúng thời, sẽ xuống trần gian thành Phật. Thiên chúng ở cõi này chuyên tu thiền, lúc nào cũng tĩnh lặng. Chúng trời ở đây có cuộc sống tĩnh lạc hạnh phúc, tuổi thọ là 4,000 năm. Mỗi năm được tính bằng 576 triệu năm ở cõi người.

5) HÓA LẠC: Là tầng trời thứ năm, vị trí cao hơn tầng trời Đâu-Suất. Thiên giới này được tạo bằng thất bảo (*) lơ lửng giữa hư không như mây. Chúng trời ở đây có khả năng tự do biến hóa, tạo ra mọi thứ theo ý muốn. Họ có cuộc sống sung sướng, hạnh phúc. Tuổi thọ là 8,000 năm. Mỗi năm được tính bằng 2,304 triệu năm ở cõi người.

6) THA HÓA TỰ TẠI: Là tầng trời cao nhất trong 6 tầng trời Dục giới, nằm cao hơn tầng trời Hóa-Lạc. Là nơi cư ngụ của Thiên Ma Ba Tuần (Mãra). Chúng trời ở đây có quyền lực tối cao, tự do biến hóa, chi phối mọi thứ và hưởng thụ những gì do các chúng sanh khác tạo ra do đó được sự tự tại. Tuổi thọ là 16,000 năm. Mỗi năm được tính bằng 9,216 triệu năm.

Chư thiên ở Dục giới do tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thanh tịnh nên thường có hào quang ánh sáng rực rỡ. Từ các cõi Trời trở xuống là nơi cư ngụ của loài Người và các loại khác như A-tu-la, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục.

B. LOÀI NGƯỜI SỐNG Ở ĐÂU ?

Loài người sống ở bốn châu: Đông-Thắng-Thần châu, Tây-Ngưu-Hóa châu, Nam-Thiệm-Bộ châu (Diêm Phù Đề) và Bắc-Câu-Lư châu. Trái đất nơi chúng ta đang sống được xem là Nam-Thiệm-Bộ châu. Tuy nói là cõi Người, nhưng cũng có loài Súc sanh, Ngạ quỷ sống lẫn lộn. Con người thân thể nặng nề, nói chung là bất tịnh. Loài người có giống nam giống nữ. Có người da trắng, da đen, da đỏ hay da vàng. Đẹp, xấu, cao lớn, giàu, nghèo… không đồng đều. Họ di chuyển bằng hai chân. Sống bằng cách ăn những loại ngũ cốc, thịt, cá… và uống nước. Sau đó, đào thải những cặn bả từ thức ăn ra ngoài qua hệ thống tiêu hóa trong cơ thể họ. Khi đến tuổi trưởng thành nam nữ nên duyên vợ chồng, ân ái sinh con trai hoặc con gái. Loài người tuổi thọ không nhất định là bao nhiêu. Thời nay, có người thọ trên 100 tuổi, có người chết ở tuổi trung niên, hoặc có khi chưa mở mắt chào đời đã chết. Người sống ở Diêm-Phù-Đề đa phần khổ nhiều hơn vui, tuy nhiên họ có năng lực nhẫn nại an chịu với duyên phận. May mắn gặp Phật pháp họ chịu tu hành hướng đến mục tiêu giác ngộ giải thoát. Kinh ghi kiếp cuối cùng của Bồ-tát luôn luôn ở cảnh người.

Riêng về Y báo và Chánh báo ở châu Bắc-Câu-Lư được xem là tối thắng hơn ba châu kia. Sách “Phật Học Tinh Yếu” do Hòa Thương Thích Thiện Tâm biên soạn nói về châu này đại ý như sau: “Trong bốn châu, riêng châu Bắc-Câu-Lư ở phía Bắc núi Tu-Di là nơi tối thắng hơn ba châu kia. Về Y báo thì non sông tú lệ, rừng cây u nhã, nhiều hồ ao trong mát, hoa quả đủ màu sắc tốt tươi. Khí hậu quanh năm mát mẻ trong lành, không có các loài ruồi, mũi, độc trùng. Ở đây các thứ gạo thơm tự nhiên sanh ra, đầy đủ vị ngọt. Về Chánh báo thì loài người sống ở châu Bắc-Câu-Lư toàn giống da trắng, xinh đẹp, tóc xanh biếc, người cao lớn, khỏe mạnh, tuổi thọ lâu dài. Khi muốn ăn, họ lấy gạo thơm trong bảo khí, phía dưới đặt hạt châu Diệm-Quang-Ma-Ni. Chỉ cần vài giây, ánh sáng hạt châu tắt là gạo đã chín thành cơm. Khi cần gì, họ đến cây Hương-thọ hái trái chín, trái này tự nứt ra, bên trong có đủ y phục tốt đẹp, hoặc đồ dùng, thức ăn… họ lấy những gì họ cần. Muốn nghỉ mát, họ đến dưới cây Khúc-cung, cây này cành lá dày rậm xanh mát, có thể nằm ngủ dưới tàng cây, mà không lo ngại nắng mưa. Khi muốn tắm gội, họ xếp y phục để trên mé hồ, tắm xong, ai lên trước cứ gặp cái nào mặc ngay cái nấy, mặc xong quần áo tự dưng vừa vặn xinh đẹp như y phục của chính mình. Người ở Bắc-Câu-Lư tướng mạo xinh đẹp đồng đều, không có tật bệnh, tóc chỉ rủ tới chân mày, màu xanh biếc. Lúc nghĩ đến dục lạc, người nam chăm chú nhìn người nữ. Nếu bên nữ đồng ý, thì đem nhau đến vườn cây Khúc-cung. Nếu hai người có liên hệ thân thuộc, như anh em chẳng hạn, thì cây Khúc-cung đứng yên không nhúc nhích, hai bên tự rời nhau mỗi người đi một ngã. Nếu không phải người cùng cha mẹ, tự nhiên cây phủ xuống chụp úp che đậy kín đáo, hai bên tùy ý ân ái từ một đến bảy ngày rồi chia tay. Người nữ mang thai độ bảy, tám ngày liền sanh. Lúc sanh ra, dù trai hay gái, người mẹ đem đặt con ở ngã tư đường. Tất cả những người qua đường, đều đưa ngón tay vào miệng đứa bé, từ trong ngón tay của họ tuôn ra chất sữa ngọt, hài nhi được no đủ. Như thế đến ngày thứ bảy đứa bé cao lớn như người thường. Con trai thì theo đoàn người nam, con gái đi theo đoàn người nữ. Đất ở châu này nhu nhuyễn, dân chúng khi đi, chân đạp đến đâu đất nơi ấy tự êm dịu bằng phẳng. Lúc người đại tiểu tiện, đất tự nứt ra, khi xong rồi, cũng tự khép lại. Nhân dân ở Uất-Đan-Việt (tức Bắc-Câu-Lư) thọ lượng đồng đều đúng 1,000 tuổi, nên khi chết không ai khóc lóc tang điếu. Kẻ chết được đồng bọn bao bọc kỹ lưỡng, đem đặt nơi đường vắng. Rất nhanh một loại chim lớn tên là Ưu-Uất-Thiền-Già quập thây bay đi xa bỏ ở nơi khác. Chúng sanh ở nơi đây được phước báu như thế, là do đời trước có tu Thập-thiện nghiệp. (ngưng trích)

C. TẠI SAO LOÀI A-TU-LA TUY CÓ THẦN THÔNG LẠI BỊ XẾP SAU LOÀI NGƯỜI ?

A-tu-la là loại chúng sanh nhiều sân hận, hiếu thắng ưa tranh cãi. Đa số có hình tướng không đoan chánh, không xinh đẹp, có phước trời mà đức độ không bằng trời. A-tu-la chia làm 4 bậc: Loài ở cõi trời thì giống trời. Loài ở cõi người thì giống người. Loài ở cõi quỷ thì giống quỷ. Loài ở cõi súc thì giống súc.

A-tu-la ở cõi trời cũng có cung điện thất bảo. Muốn ăn, muốn mặc cái gì chỉ cần nghĩ tới là những thứ đó hiện ngay trước mặt. Họ tự nhiên biến hóa như chư thiên. Nhưng do sân hận, họ có 3 sự kiện kém hơn người, nên xếp sau loài người. Đó là khi họ ăn những món cao lương mỹ vị đến miếng sau cùng thức ăn tự nhiên hóa ra bùn. Thứ hai, ở cõi trời cũng có mưa, nhưng đó là mưa hoa hoặc châu báu, trong khi mưa nơi cõi người là mưa nước. Còn cõi A-tu-la mưa xuống những binh kiếm dao gậy. Thứ ba, loài người tâm điềm tỉnh nên dễ thực hành theo chánh pháp của Đức Như Lai. Loài A-tu-la tâm sôi nổi hơn thua nên khó tu đạo giải thoát.

D. CÕI SÚC SANH HAY BÀNG SANH

Từ “Súc sanh” thông thường ám chỉ những loại thú được con người nuôi dưỡng để ăn thịt hoặc bán buôn trao đổi như trâu, bò, dê, ngựa, heo, gà, vịt, ngỗng, v.v.. nên từ súc sanh không đủ bao gồm toàn bộ các loại thú hoang dã khác như cọp, beo, sư tử, khỉ, heo rừng, voi, cá sấu… nên trong kinh gọi chung các loài thú là “bàng sanh”.

Bàng sanh là loại chúng sanh có xương sống nằm ngang. Loại đi bằng hai chân, loại đi bằng bốn chân, loại có nhiều chân như con rít, hay không có chân chỉ có thân mình như con rắn. Chúng loại bàng sanh tuy nhiều, song phân loại có ba: Loại bay trên hư không, loại dưới nước, loại sống trên mặt đất. Duyên phận của loài này cao thấp lớn nhỏ không đồng đều. Cao lớn như Kim-Súy-Điểu-Vương, như Long-Vương là loài vật có uy phước thần thông. Long Vương thân hình to lớn quấn núi Tu-Di bảy vòng, đầu gác trên đỉnh núi, đuôi chấm xuống dưới biển. Chim Kim Súy-Điểu đầu và đuôi cách nhau tám ngàn do tuần (**), chiều cao cũng thế. Ở Đại-hàm hải có loài cá Ma-Kiệt thân dài từ ba trăm đến bốn trăm do tuần, mắt mũi cực to, miệng như hang máu. Loại bàng sanh thấp như dòi, đỉa, trùng sống trong một khung cảnh nhơ nhớp tối tăm, ngắn ngủi. Bàng sanh cũng có nghiệp nhân thiện ác bất định như quỷ thần, A-tu-la.

G. CÕI NGẠ QUỶ

Quỷ có hai loại: Quỷ thần và Ngạ quỷ. Quỷ thần là loài quỷ có uy lực biến hóa. Quỷ thần loại có uy phước cũng có cung điện, thân tướng trang nghiêm, nhiều kẻ tùy thuộc, thọ dụng những trân vị cam lồ, hoặc được loài người thờ cúng. Loại này có hai hạng: Chánh thần và Tà thần. Bậc chánh thần thì giữ lòng chân chánh hay giúp đỡ nhân gian. Tà thần tâm niệm gian dối không chân thật, hoặc đa dâm đa sát, thường làm tổn hại người.

Ngạ quỷ, chúng ta nói ở đây là loài quỷ bị trừng phạt bởi khi còn là con người, họ sống bỏn xẻn, ích kỷ, tham lam, bất hiếu, hại người, phỉ báng Tam Bảo v.v… Tóm lại những việc xấu xa ác độc gì họ cũng làm. Khi chết bị đọa làm Ngạ quỷ có hình thù kỳ quái, họ sống ở chỗ âm u, thường đói khát, hoặc ăn những đồ bất tịnh. Đời sống của Ngạ quỷ không nhất định là bao lâu.

H. CÕI ĐỊA NGỤC

Kinh Nghiệp-Báo ghi rằng Địa-ngục là nơi thác sanh của loài hữu tình tạo nhiều điều ác, là nơi có đủ sự khốn đốn khổ đau. Địa ngục thì nhiều nhưng tựu chung có hai loại: Chánh ngục và biên ngục. Chánh ngục ở dưới châu Diêm-Phù-Đề trong lòng núi Tu-Di. Chánh ngục có 2 thứ hàn ngục và nhiệt Ngục. Biên ngục còn gọi là độc ngục ở lẻ loi trên núi, nơi mé biển, dưới nước, chỗ đình miếu, giữa đồng trống hoặc trong hang sâu. Kinh Địa Tạng có kể rõ những cảnh khổ ở địa ngục. Trong lịch sử Phật giáo cũng có ghi lại câu chuyện ngài Mục-Kiền-Liên tu đắc thần thông, quán thấy thân mẫu bị đọa vào kiếp Ngạ quỷ đói khát. Nhờ Đức Thế Tôn chỉ dẫn cách cứu mẹ bằng cách cúng dường trai tăng và thỉnh cầu các Ngài tụng kinh hồi hướng cho bà. Nhờ thần lực trì tụng của chư Tăng sau ba tháng an cư kiết hạ, đã giúp cho mẹ của tôn giả tỉnh ngộ buông bỏ lòng xan tham ích kỷ thoát kiếp Ngạ quỷ sanh thiên.

Tóm lại Y báo, Chánh báo của lục thú, đều như huyễn, như mộng. Chúng sanh do nghiệp lành hay dữ đời này mà thay hình đổi dạng, chịu sự khổ đau hay hạnh phúc trong đời sau, không thể nào thoát ra khỏi vòng luân hồi trong lục đạo.

II. SẮC GIỚI LÀ GÌ?

Trên Dục giới là Sắc giới, cõi này nằm giữa Tam giới. Sắc giới là nơi vô cùng tráng lệ, thù thắng trang nghiêm, là nơi tái sinh của những người tu thiền đạt định sâu. Chư thiên ở cõi Sắc đã thoát ly ngũ dục, không có thân nữ. Sự ăn mặc thọ dụng đều tùy niệm hóa hiện không cần phải tạo tác. Do ly dục tu thiền định nên thân họ phát hào quang sáng hơn cả ánh sáng nhật nguyệt. Chư thiên ở Sắc giới thọ phần tư thực, họ lấy sự an lạc của thiền định để nuôi dưỡng sắc thân (duyệt thực). Cõi Sắc chia làm 18 thiên vực khác nhau từ thấp lên cao như sau:

1) Quả đệ nhất Thiền Hữu Sắc có 3 cõi: Phạm-Chúng-Thiên; Phạm-Phụ-Thiên; Đại-Phạm-Thiên.

2) Quả đệ nhị Thiền hữu sắc có 3 cõi: Thiểu-Quang-Thiên; Vô-Lượng-Quang; Quang-Âm-Thiên.

3) Quả đệ tam Thiền hữu sắc có 3 cõi: Thiểu-Tịnh-Thiên; Vô-Lượng-Tịnh-Thiên; Biến Tịnh-Thiên.

4) Quả đệ tứ Thiền hữu sắc có 9 cõi: Vô-Thiên-Vân; Phước-Sanh-Thiên, Quảng-Quả-Thiên; Vô-Tưởng-Thiên; Vô-Phiền-Thiên; Vô-Nhiệt-Thiên; Thiện-Kiến-Thiên; Thiện-Hiện-Thiên, Sắc-Cứu-Cánh-Thiên.

Trong 9 cõi trời của quả thiền hữu sắc có 5 cõi trời gọi là Ngũ-Tịnh-Cư-Thiên hay Ngũ Bất-Hoàn-Thiên là nơi các bậc thánh A-Na-Hàm tùy theo năng lực hóa sanh vào tầng trời tương ứng. Đặc biệt, các vị thánh hóa sinh về đây không còn trở lại Dục giới mà thẳng tiến đến quả vị A-la-hán, thành bậc Giác ngộ. Năm cõi trời đó là: Vô phiền (cõi trời không còn khổ vui,, phiền não xen tạp), Vô nhiệt (không còn nhiệt não), Thiện kiến (thấy được mười phương đều trong lặng, không còn đắm trước vào trần cảnh), Thiện hiện (sự thấy biết rõ ràng tinh diệu hiện tiền, thấy hết thảy sắc tướng là không, không bị ngăn ngại), Sắc cứu cánh (lìa bỏ hết thảy các sắc cực kỳ nhỏ nhiệm, là chỗ thù thắng nhất trong Sắc giới) .

Ở các cõi trời do phước báu nên Y báo và Chánh báo đều tốt hơn cõi người khiến chúng trời mải mê hưởng thụ. Tuổi trời tuy dài lâu nhưng cũng có ngày kết thúc. Phước trời hưởng hết rồi thì có thể đọa xuống một trong ba đường dữ mãi chìm trong luân hổi sanh tử khổ đau. Cho nên Đức Phật khuyên đệ tử nên coi cõi trời là hiểm nạn, là chướng ngại cho sự giải thoát, không nên cầu về, mà lo tu tập để ra khỏi Tam giới.

III. VÔ SẮC GIỚI LÀ GÌ?

Trên Sắc giới là Vô sắc giới, cõi cao nhất trong Tam giới. Gọi là Vô sắc, vì chư thiên nơi đây không có thân, chỉ có bốn ấm vi tế là Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Trời Vô Sắc có bốn bậc.

-Đệ nhất Thiền Vô Sắc là Không-Vô-Biên-Xứ thiền, cho quả hóa sinh lên cõi Không-Vô-Biên-Xứ thiên. Có tuổi thọ 20 ngàn đại kiếp. (***)

-Đệ nhị Thiền Vô Sắc là Thức Vô-Biên-Xứ thiền, cho quả hóa sinh lên cõi Thức-Vô-Biên-Xứ thiên. Có tuổi thọ 40 ngàn đại kiếp.,

-Đệ tam Thiền Vô Sắc là Vô-Sở-Hữu-Xứ thiền, cho quả hóa sinh lên cõi Vô-Sở-Hữu-Xứ thiên. Có tuổi thọ 60 ngàn đại kiếp.

-Đệ tứ Thiền Vô Sắc là Phi-Tưởng-Phi-Phi-Tưởng-Xứ thiền, cho quả hóa sanh lên cõi Phi-Tưởng-Phi-Phi-Tưởng Xứ thiên, có tuổi thọ 84 ngàn đại kiếp, lâu dài nhất trong Tam giới.

IV. TÓM GỌN

Nhìn chung, tuy có sự khác biệt về Y báo và Chánh báo của các chủng loại trong Tam giới, nhưng tất cả đều có điểm chung là khi hết phước báu, tuổi thọ chấm dứt, thì mỗi chúng sanh dù là trời, hay người đều phải tái sanh vào cảnh giới sướng khổ trong Tam giới, tùy theo nghiệp lực của mình.

Mỗi hành động trong kiếp sống luân hồi đều ghi lại dấu ấn, ảnh hưởng đến vị trí của con người trong các cảnh giới tái sinh tiếp theo. Nếu cuộc sống hiện tại, con người có suy nghĩ hành động thiện lành thì khi chết được tái sanh về chỗ thiện lành vui sướng. Chẳng hạn như được tái sanh làm người nhưng được sống ở châu Bắc-Câu-Lư, nơi đó y báo và chánh báo đều tốt. Còn nếu sống ác gây nhiều tội lỗi khổ đau cho mọi người, thì khi chết sẽ bị đọa vào một trong ba đường dữ như Súc sanh, Ngạ quỷ hay Địa ngục, chịu nhiều đau khổ không biết đến bao giờ mới sanh lên cõi khác. Nếu tu tập giữ đúng Giới luật, làm lành lánh ác, khi thác được sanh về cõi Trời Dục giới hưởng phước. Nếu tu tập thiền định Sắc giới hay thiền Vô Sắc thì khi đắc tầng thiền nào sẽ sanh vào cõi trời tương ứng với thiền đó… Những điều nói về Tam giới trên đây chỉ có các bậc Giác ngộ chứng đắc thần thông mới thấy được. Tin hay không tin đó là quyền tự do của mọi người. Nhưng chư tôn đức có dạy rằng: “Những gì chúng ta không thấy được, không hẳn là không có”.

Đối với người học Phật, khái niệm về Tam Giới giúp chúng ta có thêm kiến thức về vũ trụ quan qua cái nhìn của Phật giáo. Qua Tam giới chúng ta biết con người sống trên đời không phải chết là chấm dứt, mà còn có nhiều cõi để mình tái sanh. Một là hóa sanh về cõi trời hưởng sự an lành hạnh phúc. Hai là bị đọa vào ác thú chịu đau khổ triền miên. Hiểu biết về Tam giới, chúng ta cũng biết rằng có được thân người đầy đủ danh-sắc hôm nay là do phước báu của nhiều đời tu tập mới có, cho nên ngay trong cuộc sống này chúng ta phải sống sao cho xứng đáng một kiếp người. Thế nào là sống xứng đáng một kiếp người? Là một Phật tử, chúng ta tránh vi phạm năm giới đã thọ, đó là chúng ta sống một cuộc đời thiện lương không tham lam lấy của người khác, không tà dâm, không sát sanh hại vật, không nghĩ xấu ác và hành động xấu ác qua lời nói và hành vi. Như vậy là chúng ta đang tu tập giữ ba nghiệp thân-khẩu-ý thanh tịnh. Tốt hơn nữa chúng ta tu tập phát huy tứ vô lượng tâm Từ-Bi-Hỷ-Xả, thương yêu thông cảm, mở lòng chia sẻ giúp đỡ tha nhân không phân biệt thân sơ… Hoặc giả cao hơn là hướng tâm tu tập thoát khỏi luân hồi sinh tử, tức ra khỏi Tam giới. Con đường tu tập hướng về tâm linh giải thoát Đức Thế Tôn đã chỉ dạy trong Kinh rất nhiều cách. Cách mà chư tôn đức hiện tiền thường nhắc tới là con đường Bát Chánh. Nếu chúng sanh nào tinh tấn tu tập sẽ đạt được kết quả “từ bớt khổ đi đến dứt khổ an trú Niết-bàn”. Bát chánh đạo là đế thứ tư trong tứ đế của bài kinh Tứ-Diệu-Đế, bao gồm: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Phương pháp tu đã có, thực hành hay không là do quyết định của mỗi người chúng ta. Bần ni xin tạm dừng bài viết nơi đây. Kính chúc tất cả quý vị hữu duyên thân tâm an lạc, và chọn lựa được con đường đi của mình.

Nam Mô Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ (Thiền thất CHÂN TÂM, Sept 20, 2025)
Source: tanhkhong.org/a4985/ni-su-hang-nhu-khai-niem-tam-gioi-trong-dao-phat

Tài liệu tham khảo:

-Kinh Trường A-Hàm, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ. Phần 11) Kinh Tăng Nhất, Phần 13) Duyên Phương Tiện và rải rác trong nhiều chương khác.

– Sách “Phật Học Tinh Yếu”, Hòa Thượng Thích Thiện Tâm. Quyển Một, Chương một: Chúng sanh trong ba cõi.

(*) Thất bảo: Gồm 7 vật phẩm quý giá tượng trưng sự thanh khiết, thông tuệ, minh mẫn, giàu sang, hạnh phúc, quyền lực v.v…trong văn hóa tâm linh. Kinh Pháp Hoa ghi thất bảo bao gồm: Vàng, Bạc, Lưu ly, Xa cừ, Mã não, Trân châu, Hoa hồng.

(**): Do tuần: Là đơn vị đo chiều dài ở xứ Ấn Độ cổ xưa. Một do tuần bằng 9,216 mét. Hai học giả hiện đại là Fleet và Vost thì cho rằng một do tuần bằng 19.5 km. Sách Phật thì 1 do tuần bằng 14.6 km; 7.3km … Hiện tại chiều dài chính xác của một do tuần chưa được đồng thuận nhất trí.

(***) Đại kiếp (Maha-kalpa): Thời gian dài vô tận, là một chu kỳ vũ trụ, nó mô tả vòng tuần hoàn của một thế giới quan từ lúc bắt đầu hình thành đến khi kết thúc và trống rỗng. Mỗi Đại kiếp bao gồm 4 giai đoạn: Thành kiếp, Trụ kiếp, Hoại kiếp và Không kiếp tương ứng với sự hình thành, tồn tại, hủy diệt và trống rỗng của thế giới. Độ dài của Đại kiếp là một con số khổng lồ có thể là ..1,344,000,000 năm; thể hiện sự trôi chảy không ngừng của thời gian và sự hình thành biến đổi của thế giới. (Theo Tự điển Phật Học)

This entry was posted in Tùy Bút. Bookmark the permalink.